[LỜI GIẢI] So sánh giá trị nhân đạo thể hiện qua 2 tác phẩm Lão Hạ - Tự Học 365
LUYỆN TẬP TRẮC NGHIỆM 50000+ CÂU HỎI

DÀNH CHO MỌI LỚP 6 ĐẾN 12

TRUY CẬP NGAY
XEM CHI TIẾT

So sánh giá trị nhân đạo thể hiện qua 2 tác phẩm Lão Hạ

So sánh giá trị nhân đạo thể hiện qua 2 tác phẩm Lão Hạ

Câu hỏi

Nhận biết

Đáp án đúng:

Lời giải của Tự Học 365

Phương pháp giải:

Phân tích, lí giải, tổng hợp.

Giải chi tiết:

1. Giới thiệu ngắn gọn chung về Nam Cao và Kim Lân cùng văn bản

2. Phân tích

a. Giá trị nhân đạo trong tác phẩm Lão Hạc – Nam Cao

- Giá trị nhân đạo của tác phẩm trước hết được khẳng định qua tấm lòng đồng cảm của nhà văn đối với những số phận bất hạnh của các nhân vật trong tác phẩm. Những con người trong tác phẩm này đều là nạn nhân của xã hội phong kiến nửa thực dân. Họ phải gồng mình chống lại nạn đói, những hủ tục phong kiến,…

+ Nhân vật chính, lão Hạc, là một người có hoàn cảnh vô cùng bi đát. Vợ mất sớm, đứa con trai duy nhất bỏ đi cao su. Một mình lão phải đối mặt với tuổi già, bệnh tật, cái đói và sự cô đơn.

+ Con trai lão Hạc cũng là một người đáng thương. Vì nhà nghèo, anh không lấy được người con gái mình yêu. Phẫn chí, anh bỏ làng đi cao su, cái đất cao su “đi dễ khó về”, “khi đi trai tráng khi về bủng beo”. Anh rời cha già luôn mấy năm, thiên truyện khép lại nhưng hình bóng anh người đọc cũng chưa được mục kích, câu hỏi về số phận của anh đành rơi vào câm lặng…

+ Ông giáo, một nhân vật có uy tín ở làng, trong thời buổi ấy cũng túng thiếu dặt dẹo, đang sống cái đời “sống mòn”, “rỉ ra, mốc lên”. Có thể nói, “Lão Hạc” đã thể hiện lòng thương, sự đồng cảm với tất thảy những lớp người bần cùng trong xã hội Việt Nam khi ấy.

- Nhà văn đã biết khám phá để nâng niu trân trọng và ngợi ca phẩm chất ngời sáng trong tâm hồn những người đồng bào lao khổ của mình:

+ Tình phụ tử ở nhân vật lão Hạc đặc biệt cảm động. Dù rất đau lòng nhưng lão chấp nhận nỗi cô đơn hờn tủi, đồng ý để con trai ra đi theo chí hướng của mình. Con đi rồi, lão chỉ còn con chó Vàng làm bạn. Lão Hạc yêu con chó Vàng đến độ gọi nó là “cậu” Vàng, ăn gì cũng cho nó ăn cùng, cho nó ăn ra bát như người…

+ Không chỉ vậy, lão thậm chí còn chấp nhận cái chết để giữ đất cho con.

+ Cả ông giáo, dẫu gia đình vẫn bữa đói bữa no nhưng luôn cố gắng giúp đỡ, cưu mang người hàng xóm bất hạnh…

+ Sống trong cái đói, cái nghèo nhưng không bị sự bần hàn làm cho quay quắt, hèn mọn, điều đáng quý nhất ở người nông dân Việt Nam trước Cách mạng là lòng tự trọng sáng ngời trong nhân phẩm. Lão Hạc thà nhịn đói chứ không chịu ăn không dù chỉ là củ khoai củ sắn của hàng xóm. Lão đã có thể bán vườn lấy tiền chống chọi với cái đói nhưng lão không làm vậy vì nhất quyết không ăn vào của con. Lão cũng có thể chọn con đường như Binh Tư đi đánh bả chó lấy cái ăn. Và lão không hề làm vậy. Con người ấy, đến lúc chết vẫn còn lo mình làm phiền hàng xóm nên dành dụm gửi gắm ông giáo tiền làm ma. Cảm động hơn cả là nỗi lòng quặn thắt của lão sau cái chết của con Vàng. Lão dằn vặt bởi nghĩ mình “đã đi lừa một con chó”. Lão Hạc ơi! Ẩn bên trong cái hình hài gầy gò, già nua của lão là một tâm hồn cao thượng và đáng trân trọng biết bao nhiêu!

=> Đồng cảm với số phận của người lao động, đặc biệt là người nông dân Việt Nam trước Cách mạng, đồng thời ngợi ca những phẩm chất cao quý của họ là những biểu hiện quan trọng của giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao. Viết về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng, giọng văn Nam Cao lạnh lùng, bàng quan nhưng ẩn sâu trong đó là một tình thương sâu sắc và mãnh liệt.

b. Giá trị nhân đạo trong tác phẩm Làng – Kim Lân

- Quan tâm đến sự đổi đời của người dân từ đó khám phá ra cội nguồn sức mạnh của người dân. Tin tưởng người nông dân – ông Hai: Ông tha thiết yêu làng Chợ Dầu và rất tự hào về làng mình.

+ Khoe làng:

Trước cách mạng: Ông khoe con đường làng đi chẳng lấm chân, khoe cái sinh phần của một vị quan lớn trong làng.

Sau cách mạng: Ông khoe về một làng Chợ Dầu cách mạng, làng Chợ Dầu chiến đấu.

+ Nhớ làng: Ở nơi tản cư:

Luôn nhớ về làng và muốn về lại làng Chợ Dầu.

Thói quen sang bác Thứ để kể chuyện làng -> kể để nguôi đi nỗi nhớ làng.

Tự hào vì làng Chợ Dầu tham gia chiến đấu ủng hộ cách mạng (chòi gác, đường hầm bí mật…)

+ Đau đớn khi nghe làng theo giặc và quyết tâm: làng thì yêu thật nhưng làng theo giặc rồi thì phải thù.

+ Vui mừng, hớn hở như đứa trẻ khi nghe tin cải chính.

=> Cội nguồn của sự thay đổi tâm trạng của ông vẫn là tình yêu làng, yêu nước. Tin cải chính đã trả lại cho ông niềm tự hào về làng Chợ Dầu và niềm tự tin vào bản thân mình. Hai tình cảm lớn lại hòa nhập làm một trong tâm hồn người nông dân chất phác và trọng danh dự này.

c. Nhận xét

- Điểm chung: Trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp, những ước mơ trong sáng giản dị của con người.

- Điểm khác biệt:

+ Văn học 1930 -1945 coi con người là nạn nhân của hoàn cành, nhà văn khao khát đổi thay số phận con người nhưng bất lực (VD: Lão Hạc tìm đến cái chết).

+ Văn học 1945 - 1975: đề cao vai trò của con người, tin vào con người có khả năng cải tạo hiện thực và thay đổi số phận của mình bằng con đường đấu tranh cách mạng (ông Hai tin tưởng và tìm thấy ánh sáng cuộc đời ở Đảng, ở cách mạng).

- Lí giải nguyên nhân của sự khác biệt:

+ Các nhà văn giai đoạn 1930-1945 (chủ yếu là các nhà văn hiện thực phê phán) mang ý thức hệ tư sản, tiểu tư sân, hầu hết chưa tham gia cách mạng nên mới chỉ nhìn thấy tác động một chiều của hoàn cảnh đối với con người, nhìn con người và hiện thực khách quan có phần bi quan, bế tắc.

+ Do hạn chế khách quan từ hoàn cảnh lịch sử.

+ Các nhà văn giai đoạn 1945-1975, họ đều là những người chiến sĩ cách mạng, họ trực tiếp tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu, giác ngộ và thấm nhuần cao độ lí tưởng cộng sản nên cổ tinh thần lạc quan, thấu suốt tương lai.

Ý kiến của bạn