Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường chơi, mà từ từ bước vào buồng. Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi. Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn yêu cũng lửng lơ bay ngoài đường.
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi…
(Trích Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài, Ngữ Văn 12, Tập 2, NXB Giáo dục 2008, tr 7-8)
Cảm nhận của anh/chị về tâm trạng nhân vật Mị trong đoạn văn trên.
Từ đó, liên hệ với tâm trạng nhân vật Chí Phèo trong đoạn trích sau để thấy được khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của người lao động trong xã hội cũ:
Nhưng bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài. Cũng như những người say tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc. Hay là đói rượu? Nghĩ đến rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tí. Hắn sợ rượu cũng như người ốm thường sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy… Chao ôi là buồn!
- Vải hôm nay bán mấy?
- Kém ba xu, dì ạ!
- Thế thì còn ăn thua gì!
- Có khéo co mới được một tấm năm xu.
- Thật thế đấy. Những chẳng lẽ rằng lại chơi…
Chí Phèo đoán chắc rằng một người đàn bà hỏi một người đàn bà khác đi bán vải ở Nam Định về. Hắn lại nao nao buồn, vì là mẩu chuyện ấy nhắc cho hắn một cái gì rất xa xôi. Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm.
(Trích Chí Phèo – Nam Cao, Ngữ Văn 11, Tập 1, NXB Giáo dục 2007, tr.149)
Giải chi tiết:
Yêu cầu hình thức:
_Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kĩ năng làm nghị luận văn học để tạo lập văn bản.
_Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; diễn đạt trôi chảy, bảo đảm tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung:
Giới thiệu tác giả Tô Hoài, tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”_Tô Hoài là cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Sáng tác của ông thiên về diễn tả sự thực đời thường. Ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta. Ông cũng là nhà văn luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải, vốn từ vựng giàu có.
_ Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (1952) in trong tập Truyện Tây Bắc được tặng giải Nhất – Giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955.
Giới thiệu về nhân vật Mị*Chân dung, lai lịch:
_ Nhan sắc: “trai đến đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị” -> nhan sắc rực rỡ ở tuổi cập kê.
_ Tài năng: thổi sáo, thổi lá. Hay đến mức có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.
_ Phẩm chất tốt đẹp: Khi bố mẹ Mị hết đời chưa trả được món nợ cho thống lí Pá Tra, thống lí Pá Tra định bắt Mị về làm con dâu gạt nợ:
+ Hiếu thảo:“ Con sẽ làm nương ngô giả nợ thay cho bố”
+ Tự tin vào khả năng lao động: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô”
+ Khao khát tự do: “Bố đừng bán con cho nhà giàu”
-> Xứng đáng được hưởng hạnh phúc nhưng lại bị xã hội của tiền quyền, cường quyền và thần quyền vùi dập, đẩy vào ngã rẽ tăm tối.
*Số phận bất hạnh: bị biến thành con dâu gạt nợ.
_Nguyên nhân:
+ Do món nợ truyền kiếp.
+ Vì Mị bị A Sử lừa bắt về do hủ tục cướp vợ của người dân tộc thiểu số.
_ Ban đầu mới về, Mị phản kháng nhưng yếu ớt rồi muốn tự tử nhưng đến khi quen dần Mị chịu sự đày ải cả về thể xác lẫn tinh thần.
Phân tích tâm trạng của Mị trong đoạn trích trên*Hoàn cảnh: Trong đêm tình mùa xuân với khung cảnh đặc trưng của vùng núi:
_ Khung cảnh ngày xuân:
+ Màu sắc rực rỡ: cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy phơi trên mỏm đá xòe rộng ra như những cánh bướm sặc sỡ.
+ Âm thanh náo nhiệt, tưng bừng: tiếng trẻ con chờ tết chơi quay cười ầm trên sân chơi trước nhà …
_ Tiếng sáo: có sự dịch chuyển, vận động:
+ Từ xa đến gần (Từ ngoài vào trong, từ khách thể nhập vào chủ thể):
+ Từ hiện tại đến quá khứ (Từ cõi thực đến cõi mộng).
+ Tiếng sáo rủ bạn đi chơi đầy háo hức -> tiếng sáo gọi bạn yêu trong tuyệt vọng.
=> Dìu hồn Mị bềnh bồng sống lại với những khát khao yêu thương hạnh phúc của ngày xưa, dẫn Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ.
_ Hơi rượu:
+ Uống cả hũ rượu
+ Uống ực từng bát
-> Say lịm mặt ngồi đấy -> Lãng quên hiện tại -> Sống lại quá khứ.
*Diễn biến tâm trạng của Mị trong đoạn trích:
(+) Tương tranh, mẫu thuẫn giữa sức sống tiềm tàng và thực tại hiện hữu:
_ Sức sống tiềm tàng:
+ Mị thấy “phơi phới” trở lại, “vui sướng”
+ Thức dậy ý thức và khát vọng: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”.
_ Thực tại hiện hữu: Mị muốn đi chơi nhưng lại không đi chơi, Mị đi vào buồng.
(+) Trong hơi rượu -> sức sống tiềm tàng lại trỗi dậy
_ Mị như ở trạng thái mộng du, vượt thoát hoàn cảnh để tìm lại chính mình.
_ Mị lại trở lại thực tại và buồn tủi cho thân phận của chính mình “Huống chi Mị với A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau!”.
_ Tiếng sáo ngoài kia vẫn như đánh thức, vẫy gọi Mị “tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”.
Liên hệ với nhân vật Chí Phèo trong đoạn trích*Giới thiệu tác giả Nam Cao, tác phẩm Chí Phèo
*Giới thiệu nhân vật Chí Phèo và tóm tắt cuộc đời Chí Phèo
*Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo trong đoạn trích trên
(+) Chí Phèo tỉnh rượu:
_ Chí Phèo bị cảm lạnh, nôn mửa -> tỉnh.
_ Chí nhận thức được cuộc sống xunh quanh:
+ Ánh sáng: mặt trời chắc đã lên cao và nắng chắc đã rực rỡ.
+ Âm thanh: tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng những người đàn bà đi chợ bán vải về, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá.
_ Nhận thức về bản thân:
+ Nhớ về quá khứ tươi đẹp.
+ Quay về với thực tại: số 0 tròn trĩnh (không vợ con, không tài sản…), số âm(nhận thấy mình đã sang dốc bên kia của cuộc đời)
+ Nghĩ về tương lai: đói rét, ốm đau, cô độc.
Những người nông dân đều chịu số phận bất hạnh, bị đẩy đến bước đường cùng, làm chai sạn cảm xúc, tâm hồn. Nhưng trong họ vẫn bùng lên khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc: Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, những người nghèo khổ vẫn luôn khao khát được sống và sống cuộc sống hạnh phúc.=> Đây chính là cách thể hiện cái nhìn nhân đạo, nhân văn với con người của các nhà văn.
Một dòng điện xoay chiều mà cường độ dòng điện có biểu thức
. Cường độ dòng điện hiệu dụng có giá trị là